… Thuyền ơi có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền…
Giai điệu du dương của ca từ trong bài hát “Câu hò bên bờ Hiền Lương” như vang vọng mãi trong trái tim những con người sống hai bên bờ Nam - Bắc dòng sông lịch sử, dòng sông Bến Hải. Đặc biệt, nó như một lời hẹn ước của một người ở bên này đối với người bên kia dòng sông và đặc biệt hơn nữa nó in đậm trong trái tim những đôi lứa yêu nhau mà dang dở tình đầu.
Tôi sinh ra trong những năm cuối của cuộc chiến tranh và lớn lên trong những năm đầu thống nhất đất nước, nơi có vùng đất trải dài dọc theo Vĩ tuyến 17, có dòng sông Bến Hải chảy ngang qua và đã được chọn để làm ranh giới tạm thời chia cắt hai miền Nam - Bắc theo hiệp định Genève, 1954. Cầu Hiền Lương, cây cầu bắc qua sông cũng từ đó được chia đôi, sơn hai nửa hai màu khác biệt. Thế hệ chúng tôi là những mầm non vừa chịu ảnh hưởng của chiến tranh, vừa là nhân tố để hàn gắn lại vết thương chia cắt đó. Đã có những câu chuyện vui buồn, cười ra nước mắt ở hai bên bờ dòng sông lịch sử này. Có những chuyện đã đi vào văn thơ nghệ thuật, dựng thành phim như “Chung một dòng sông”, “Vĩ tuyến 17 ngày và đêm”, trong tiểu thuyết và được chuyển thể thành phim cùng tên “Người không mang họ” của nhà văn Xuân Đức, … Và có rất nhiều mẫu chuyện nữa còn nằm mãi trong kí ức của những con người mộc mạc chân quê.
Những năm 80 của thế kỷ 20, huyện Bến Hải thuộc tỉnh Bình Trị Thiên bao gồm hai vùng đất Gio Linh ở phía nam và Vĩnh Linh ở phía bắc dòng sông Bến Hải, lấy trung tâm hành chính là thị trấn Hồ Xá nằm ở trung tâm vùng đất thép Vĩnh Linh.
Trong giai đoạn này, hàng năm, học sinh giỏi được chọn từ các cụm trường trong huyện tụ tập về thị trấn Hồ Xá ôn luyện để chuẩn bị cho kỳ thi Tỉnh. Năm học 1986-1987, tôi may mắn được tuyển chọn vào đội Toán và cũng được tựu tập về thị trấn. Đây là lần xa nhà đầu tiên và ngẫu nhiên đúng vào độ tuổi bắt đầu biết rung động trước những tình thương cảm mến với bạn khác giới, trước cái đẹp hồn nhiên của tuổi học trò. Ở vào thời điểm đó, học sinh phía nam Bến Hải học theo hệ 12 năm, học sinh bắc Bến Hải học hệ 10 + 1 năm, nên trong lớp, các bạn học sinh phía nam thường lớn hơn các bạn phía bắc từ 1 đến 2 tuổi. Các bạn trai phía nam trông có vẻ chững chạc, được lòng các bạn gái hơn đúng như những gì mà người đi trước truyền khẩu lại với nhau “Trai Nam - Gái Bắc”.
Các bạn học sinh giỏi được thầy cô đưa về thị trấn tập trung, thầy cô ở Phòng giáo dục huyện tổ chức đón tiếp. Như đã có sự chuẩn bị trước, thầy cô gọi các em học sinh cấp 2 Hồ Xá đến giới thiệu, rồi mỗi em nhận một hoặc hai anh chị về nhà mình ở lại. Hồi đó chưa có nhà ở tập thể hay nhà trọ như bây giờ. Từ những đứa trẻ lần đầu xa gia đình đến nơi miền đất lạ, chúng tôi lại về ở với những gia đình cũng hoàn toàn xa lạ. Chỉ nhờ tình cảm yêu thương và thấu hiểu của những con người nhân hậu và tính cách ngây ngô của tuổi mới lớn mà chúng tôi dễ dàng và nhanh chóng hòa nhập vào cuộc sống mới, tập trung vào việc học tập. Khi kỳ ôn luyện (từ đầu tháng 10 đến cuối tháng 12) kết thúc, mỗi một chúng tôi ai cũng có những mối quan hệ tình cảm thiêng liêng, cao quý đó là tình cảm gia đình, cha nuôi, mẹ nuôi, tình anh em kết nghĩa. Đất và người thị trấn Hồ Xá trở thành quê hương thứ hai của chúng tôi.
Lớp Toán năm ấy có 12 người, trong đó có hai cô bạn gái, một bạn ở phía nam, quê Hải Thái, một bạn ở phía bắc, quê Vĩnh Hòa. Tôi ấn tượng với cô bạn gái ML ở Vĩnh Hòa, tính tình dễ thương, nhí nhảnh, học giỏi và thể thao cũng giỏi… Hội khỏe Phù Đổng năm đó được tổ chức ở sân vận động Hồ Xá (gần kế bên trường cấp 2), trùng với thời gian chúng tôi đang ôn luyện ở đây. Một hôm đang ngồi học, có một bạn ở trường cấp 2 Vĩnh Hòa đến gõ cửa xin thầy cho ML ra thi chạy, thế là chúng tôi được thầy cho đi cổ vũ luôn. ML chạy nhanh thật, chạy một mạch 3 vòng quanh sân vận động và về nhất đoàn luôn! Một ấn tượng nhỏ đã len lỏi và hình thành trong tôi về cô bạn gái này.

Quê tôi là một xóm nhỏ bên sườn đồi, nằm trong vùng chiến sự Cồn Tiên - Dốc Miếu, nơi có hàng rào điện tử McNamara đi qua. Việc hình thành xóm nhỏ này cũng là một câu chuyện đến giờ vẫn chưa có hồi kết. Chuyện là, từ xa xưa làng Cao Xá, thuộc xã Trung Hải, nằm giữa cánh đồng lúa, mỗi một mùa lũ là nước ngập hết cả làng, mọi người kéo nhau lên trú tạm trên đồi đất đỏ thuộc sườn bắc Dốc Miếu của xã Gio Phong. Lâu ngày, các cụ đã bỏ tiền ra mua một vùng đất, lập thành một xóm gọi là xóm Đôộng (có nghĩa là ở trên đồi cao). Cũng không biết việc mua bán ngày xưa diễn ra như thế nào nhưng đến hôm nay địa giới hành chính cũng như việc cấp sổ quyền sở hữu đất vẫn thuộc về xã Gio Phong, con em trong xóm tôi cũng đi học tại các trường trong xã Gio Phong. Thế nhưng mọi sinh hoạt và việc quản lý nhân khẩu lại thuộc về xã Trung Hải.
Từ xóm Đôộng đến Hồ Xá chừng 14km, nhưng vấn đề đi lại thật khó khăn. Chúng tôi thường đi bộ hoặc đi xe đò (xe khách). Ngày đó, nhà nào có được chiếc xe đạp cũng được xem như khá giả rồi. Xe đò chạy theo giờ, một ngày một chuyến nên việc không kịp giờ đón xe là chuyện thường tình. Những lúc như vậy, tôi và các bạn ra đường xin đi nhờ. Nhớ có một lần, tôi và hai người bạn xin được một bác xe Ben (là một chiếc xe tải được sử dụng để vận chuyển vật liệu rời như cát, sỏi, hoặc bụi bẩn dùng cho xây dựng). Hôm đó, xe chở vôi có phủ bạt che kín. Trước cabin đã có bác tài và anh phụ xe nên chúng tôi được cho leo lên đứng phía trên thùng. Lúc bắt đầu đi, cảm giác thật vui sướng vì gió mát và được nhìn toàn cảnh hai bên đường. Tuy nhiên, xe càng chạy, gió càng lùa vào, cuộn lên mang theo vôi bột xoáy tròn trên thùng xe. Chỉ một đoạn đường ngắn thôi mà chúng tôi đã trắng bạch như những con chuột bạch. Thật, không có cái dại nào giống cái dại nào! Đúng là một chuyến xe bão táp!
…
Ba tháng như một cái chợp mắt, chúng tôi bước vào kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh. Bài được gửi vào tận thành phố Huế để chấm. Giờ chia tay lại đến. Trước khi về, các thầy cô phụ trách cũng tập trung lớp lại thăm hỏi, dặn dò và cho điểm các môn phụ để đem về trường vào điểm học kỳ I. Điểm các thầy cô cho thường là điểm 9. Ai cũng vui vẻ chấp nhận nhưng ML thì không, bạn ấy nói “ở trường em học toàn điểm 10, giờ thầy cho điểm 9 là thiệt thòi cho em”. Chúng tôi trố mắt nhìn nhau và tự hỏi: không biết bạn ấy nói thật không hay đòi hỏi quá đây? …Nhưng dù sao đi nữa, nó cũng tiếp tục ghi dấu ấn lại trong tôi.
Chúng tôi chia tay, ngoài những trang lưu bút, tặng nhau tấm thiệp phong cảnh quê hương hay cuốn lịch bỏ túi, … chỉ vậy thôi và hẹn ngày 3/1 Tết Âm lịch năm mới gặp nhau trước Nhà hát trung tâm thị trấn, nhà hát mà chúng tôi một vài lần được người quen dẫn vào xem các bộ phim video màu đang thịnh hành hồi đó như: “Công lý và báo thù”, “Lời thề bất tử”. Một cuộc hẹn như là để có hẹn. Ngày đó, không có điện thoại như bây giờ, việc nhắc lại lịch gặp nhau là không thể, ai cũng có thể đến và cũng có thể không, cũng không biết nếu đến có gặp ai hay không. Thế rồi một tháng trôi qua, sáng mùng 3 Tết, tôi và người bạn thân gần nhà đi bộ từ xóm Đôộng ra thị trấn Hồ Xá. ML đi từ Vĩnh Hòa lên, và hai người bạn ở thị trấn đến nữa. Đợi một hồi mà chúng tôi vẫn có được 5 người, lúc đó khoảng 10h sáng. Trong không khí ấm áp đầu xuân, chúng tôi ai cũng vui khi được gặp lại, vui khi có người giữ được lời hứa với nhau, xúc động và tràn ngập hạnh phúc. Bỗng từ loa phóng thanh khắp các ngả đường phát đi bài hát “Mùa xuân chim én”, bài hát mà mỗi độ xuân về là tôi lại nhớ, mỗi lần nghe tôi lại nao nao về kỷ niệm. Bài hát với những ca từ như thấm sâu vào tâm trí tôi, nghe một lần mà tôi thuộc hơn cả những bài toán bài văn mà tôi được đọc đi học lại nhiều lần: …Em chợt đến bên anh, dịu dàng như cơn gió nhẹ, mà lòng anh để ngỏ, cho hồn em mơn man… Em là cánh én mỏng, chao xuống giữa đời anh, cho lòng anh xao động, thành mùa xuân ngọt lành…. Én về én lại xa, mùa xuân đi không ở lại, bên anh em gần mãi, nên đời vẫn, đời vẫn xuân trào.
Chúng tôi đi bộ về Vĩnh Hòa. Lang thang dọc con đường đất đỏ, cây cối xanh tươi, phong cảnh hữu tình, mùa xuân thật đẹp, đẹp như tuổi của bạn gái tôi hôm ấy, Tuổi của nàng tôi nhớ chỉ mười ba…. Trong hoàn cảnh ấy, thời gian sao trôi đi nhanh quá, chỉ mới mấy câu chuyện huyên thuyên không có chủ đề mà đã đến 1h chiều. Phải chia tay! Còn đi bộ hơn 15km về nhà nữa. ML đi đoạn gần 1km để tiễn chúng tôi. Cũng trong một ngày, sao cảnh vật bây giờ tĩnh lặng, chỉ một làn gió nhẹ cũng nghe tiếng lá lao xao. ML rưng rưng hai hàng nước mắt, nắm lấy cành cây bên đường mà ngắt từng chiếc lá bỏ đi, như muốn nói khi nào ML ngắt hết lá thì các bạn hãy về. Tôi cũng nghẹn ngào, rưng rưng nhưng nước mắt lại chảy vào trong, hòa vào các mạch máu, ngược về tim và đọng lại thành dấu khắc vô hình của một kỷ niệm đẹp mà có lẽ không có kỷ niệm nào đẹp hơn.
Chúng tôi đứng nhìn nhau cho thời gian trôi đi, bịn rịn không nói nên lời, chia tay mà chẳng có một cái bắt tay. Giây phút ấy, giây phút mà sau này tôi mới thấm hiểu câu thơ ghi đầy lên các trang lưu bút học trò: Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy, ngàn năm hồ dễ mấy ai quên! Giữa khung cảnh ngày xuân ấy, lần thứ ba, người bạn gái với đôi mắt rưng rưng giọt lệ lại in đậm dấu ấn trong tôi.
…
Thời gian cứ dần trôi, ML lên học ở cấp 3 thị trấn Hồ Xá, tôi học cấp 3 Gio Linh. Chúng tôi vẫn ở hai miền của dòng sông Bến Hải. Thỉnh thoảng có vài cánh thư qua lại, cũng như đôi lần tôi ghé thăm nhà bạn. Có những hôm ôn bài thấm mệt, tôi ra đứng cuối sườn đồi, nhìn về phương trời ấy, nhìn về vùng đất phủ đầy một màu xanh Vĩnh Hiền, Vĩnh Thành, Vĩnh Hòa, Vĩnh Kim, Vĩnh Mốc, rồi tưởng tượng về người bạn hiền ấy. Đôi lúc lại lấy mảnh chai khắc tên hai đứa lên thân cây, như một cách mà tôi thường áp dụng để thư giãn, giảm căng thẳng trong việc học hành thi cử. Ngày đó, ước vọng vào đại học là mục tiêu lớn hàng đầu, chúng tôi ai cũng vùi đầu vào sách vở, những tình cảm dại khờ của tuổi học trò theo đó mà cũng phai nhạt dần, quen dần chuyện xa cách và để rồi cuối cùng mất liên lạc nhau luôn.
…
Biền biệt gần 20 năm xa cách, năm 2006, tình cờ một lần nói chuyện với người bạn thân, bạn cho biết là đã gặp lại ML. Cuộc điện thoại đầu tiên sau 20 năm xa cách, hai đầu dây ở hai nơi xa nhau cả ngàn cây số nhưng trong tôi như đang sống lại những ngày đầu, ngày mà tôi và bạn ấy gặp lại nhau ở thị trấn Hồ Xá, ngày đầu xuân, êm đềm như khúc ca …Em chợt đến bên anh, dịu dàng như cơn gió nhẹ, mà lòng anh để ngỏ, cho hồn em mơn man… Em là cánh én mỏng, chao xuống giữa đời anh, cho lòng anh xao động, thành mùa xuân ngọt lành…. Én về én lại xa, mùa xuân đi không ở lại, bên anh em gần mãi, nên đời vẫn, đời vẫn xuân trào.
Kỷ niệm ấu thơ lại ùa về trong tâm hồn của những con người từng trải, chúng tôi nói thật nhiều và muốn quay ngược thời gian về với ngày xưa ấy, để nói với nhau những gì ấp ủ trong tim mà ngày đó chưa dám nói ra. Nhưng không thể, ML giờ đã có gia đình và tôi cũng đã yên bề gia thất. Cuộc sống, trách nhiệm gia đình và xã hội lôi kéo chúng tôi trở về thực tại, như những hạt điện tử của các loại khí trơ quay quanh hạt nhân của nó, muốn thoát ra mà không bao giờ tự bứt ra được.
Nói chuyện với nhau, chúng tôi vẫn nhắc về kỷ niệm cũ, thầm đùa nghịch với nhau nếu ngày đó dám nói thật, thì chuyện bây giờ đã khác. ML không nói yêu tôi, cũng chưa bao giờ nói tình cảm bạn ấy dành cho tôi. Hơn 30 năm, trải qua bao lần di chuyển, bao thăng trầm của cuộc sống, nhưng những lá thư tôi viết ngày ấy bạn vẫn giữ. Có một lần nói chuyện qua Webcam, ML cho tôi xem lại những lá thư tôi viết. Giây phút ấy, thực sự tôi không thể nào tả nỗi những xúc động của lòng mình. Phải chăng tôi cũng đã khắc dấu trong tim bạn ấy? Tôi chợt nhận ra rằng, dấu khắc trong tim không giống như dấu khắc trên cây, trên đá, nó là một dấu khắc sống, càng ngày càng lớn, càng ngày càng sâu đậm hơn!
Có ai hiểu, có ai tin câu danh ngôn mà tôi đã từng đọc ở đâu đó “Tình bạn giữa một người con trai và một người con gái, là một thứ tình giả tạo để che lấp một thứ tình không nói rõ.” Riêng tôi, tôi tin và thành thật chính với bản thân mình: Mối tình đầu của tôi, mối tình ở bên kia bờ Bến Hải!
T.T
Ngày 05/12/2019